Kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc: Cơ hội và thách thức
(DNTO) - Bối cảnh đặc biệt của thế giới và trong nước vừa tạo công cuộc đổi mới, sáng tạo, phát triển trong kỷ nguyên mới của Việt Nam những triển vọng mới đầy hứa hẹn, vừa đặt ra những nhiệm vụ mới hết sức nặng nề.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người thường đo bằng thiên niên kỷ, thế kỷ, năm tháng, ngày giờ. Nhưng còn một cách đo khác ấn tượng hơn và ý nghĩa hơn là xác định sự sự phát triển của xã hội căn cứ vào những chuyển biến, thay đổi có tính bước ngoặt, báo hiệu sự chuyển hoá về chất của đời sống xã hội đối với toàn nhân loại hoặc toàn dân tộc. Đó là sự phân định toàn bộ các nấc thang phát triển bằng thời đại, trong thời đại có những thời kỳ, trong mỗi thời kỳ có những giai đoạn phát triển. Ở mỗi giai đoạn phát triển của thế giới hoặc trong một quốc gia xuất hiện những sự kiện trọng đại, hoặc những tố chất, những thành tựu có ý nghĩa và ảnh hưởng to lớn, thì được "trang trọng hoá" hơn, gọi là kỷ nguyên. Ví dụ thời điểm của thế giới hiện nay là kỷ nguyên số.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, đã lãnh đạo toàn thể dân tộc ta đánh đổ chế độ phong kiến thực dân, giành thắng lợi vẻ vang Cách mạng tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên mới độc lập tự do của dân tộc. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm 1975 là điểm mốc quan trọng để đất nước ta bước vào kỷ nguyên thống nhất, đổi mới, phát triển theo định hưỡng xã hội chủ nghĩa.
Sau gần 50 năm thống nhất đất nước, gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đầy nỗ lực, sáng tạo, chúng ta đã đạt được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Sự thành công trong việc thực hiện những mục tiêu to lớn cuả đất nước ta trong kỷ nguyên thống nhất đổi mới vừa qua là tiền đề, điều kiện thuận lợi để đất nước ta bước vào kỷ ngyên mới. Chính vì thế Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát động một hành trình cách mạng mới đối với dân tộc ta, đất nước ta là tự tin bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước phát triển, công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 1945 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao. Đây như lời hịch khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tăng thêm độc lập, dân tộc, tự chủ, tự cường, khát vọng phát triển đất nước nhanh, bền vững và lên một tầm cao mới, cấp độ mới của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Định hướng bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn tầm của dân tộc Việt Nam là phù hợp với logic phát triển của cách mạng Việt Nam và xu thế của thời đại.
Bối cảnh thế giới và trong nước vừa tạo cho kỷ nguyên mới của Việt Nam những triển vọng mới đầy hứa hẹn, vừa đặt ra những nhiệm vụ mới hết sức to lớn và nặng nề. Cơ hội và thách thức, thời cơ và nguy cơ luôn tác động tới chiều hướng phát triển của đất nước. Vấn đề là phải nắm bắt cơ hội, tiếp tục đấy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy những lợi thế trong nước, tích cực mở rộng quan hệ hợp tác, phân công lao động quốc tế, tạo động lực mới để vươn lên, phát triển nhanh chóng, vững chắc; đồng thời cần luôn tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi các nguy cơ, bảo đảm cho kỷ nguyên mới của đất nước được đẩy mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn tổng thể, giai đoạn từ nay đến năm hai cột mốc là năm 2030 và 2045, hành trang cách mạng của nước ta đang và sẽ chịu tác động nhiều chiều, nhiều hướng, với nhiều cấp độ từ những chuyển biến mới, phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước. Cơ hội và thách thức đan xen; thời cơ có nhiều, song khó khăn, thách thức cũng rất lớn. Nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới cao hơn, phức tạp hơn đang và sẽ đặt ra đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải có quyết tâm chính trị cao và nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn, tận dụng được thời cơ, vượt qua khó khăn, thử thách, chuyển thách thức thành cơ hội, để tiếp tục đưa đất nước phát triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
I. Những cơ hội từ tình hình quốc tế
1.1 Những cơ hội
Thứ nhất, hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trên thể giới, tạo cho chúng ta có được môi trường hòa bình để tập trung vào phát triển đất nước.
Tuy tình hình ở một số nước láng giềng còn tiềm ẩn một số yếu tố gây mắt ổn định có thể bị nước ngoài lợi dụng nhưng trong những năm trước mắt, khó có khả năng tạo ra mối đe dọa trực tiếp đến an ninh của nước ta. Các nước trong khu vực, kể cả Mỹ và Trung Quốc đều có nhu cầu giữ môi trường hòa bình, ổn định và thúc đây hợp tác, phát triển; tập trung cho phát triển và cùng có lợi ích trong việc duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á.
Thứ hai, tuy vẫn tồn tại những khác biệt trong một số lĩnh vực, vấn đề nhưng giữa Việt Nam và các nước không có vướng mắc lớn có thể làm đổ vỡ quan hệ hiện có.
Chính sách và quan hệ giữa các nước lớn hiện nay và trong những năm tới mở ra cơ hội để chúng ta có thể tiếp tục thúc đẩy quan hệ với từng nước, đồng thời cũng cho phép chúng ta vận dụng sách lược, không để bất kỳ nước lớn nào chi phối quan hệ đối ngoại của ta, tránh được tình huống họ liên kết, thỏa hiệp với nhau gây bất lợi cho chúng ta, hoặc đẩy ta vào tình thế phải đối đầu.
Thứ ba, châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động.
Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ và tự do hóa thương mại, đầu tư của các nước vào khu vực châu Á - Thái Bình Dương tăng cường cùng với việc nước ta đã tham gia nhiều hiệp định thương mại thế hệ mới sẽ tạo thuận lợi cho Việt Nam đẩy mạnh được xuất khẩu, tranh thủ đầu tư, vốn và công nghệ cho phát triển đất nước. ASEAN tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong các hợp tác khu vực và thu hút được sự quan tâm của các đối tác lớn ngoài khu vực.
Thứ tư, Việt Nam có cơ hội mới từ quá trình điều chỉnh chiến lược, chính sách của các nước lớn, các nước láng giềng.
Cán cân quyền lực và trọng tâm chiến lược đang dịch chuyển sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Các nước lớn đều điều chỉnh chính sách theo hướng coi trọng khu vực. Cấu trúc khu vực đa tằng nấc đang hình thành, ASEAN tiếp tục giữ được vai trò trung tâm vừa khuyến khích sự tham gia của nhiều nước lớn, vừa hạn chế được “bá quyền”. Đây là điều kiện thuận nhất cho việc triển khai chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa của ta. Việt Nam có cơ hội tranh thủ vị trí địa chiến lược, tranh thủ các bên trong và ngoài khu vực, tăng cường đan xen lợi ích chiến lược giữa ta và các đối tác để phục vụ cho các mục tiêu bảo đảm an ninh và thúc đẩy phát triển đất nước; đồng thời vẫn giữ được hòa hiếu giữa các bên.
Thứ năm, Việt Nam có cơ hội tranh thủ thị trường, vốn và công nghệ, tham gia vào mạng lưới sản xuất và phân phối ở khu vực và toàn cầu.
Xu hướng phát triển của các liên kết kinh tế tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu tiếp tục tạo ra những cơ hội cho Việt Nam tranh thủ thị trường, vốn, công nghệ. Quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu của các nền kinh tế và các tập đoàn đa quốc gia trong và sau khủng hoảng kinh tế cũng tạo ra cơ hội gia tăng liên kết giữa các ngành, các doanh nghiệp của ta vào mạng lưới sản xuất và phân phối ở khu vực và toàn cầu.
1.2 Những thách thức chủ yếu
Thứ nhất, cạnh tranh giữa các nước lớn tạo nên nhiều khó khăn cho Đảng và Nhà nước ta trong xử lý quan hệ với từng nước, với các đối tác và trong việc duy trì sự đoàn kết, thống nhất trong ASEAN.
Sự lựa chọn chính sách và xử lý quan hệ với các nước lớn đã và vẫn sẽ là một trong những khó khăn, thách thức lớn nhất đối với an ninh và phát triển của Việt Nam trong thời gian tới. Do đó, Đảng và Nhà nước ta phải hết sức năng động, linh hoạt và khôn khéo để Việt Nam không bị rơi vào thế kẹt trong các cuộc mặc cả giữa các nước lớn; đồng thời đem lại lợi ích lớn nhất cho quốc gia trong quan hệ với các nước lớn.
Trong khoảng 15 - 20 năm tới, sự va chạm về lợi ích giữa các nước lớn tại khu vực nói chung và tại Việt Nam nói riêng có xu hướng gia tăng. Do vậy, công tác đối ngoại của Việt Nam đứng trước thách thức làm thể nào để tranh thủ được sự quan tâm của các nước lớn, biến sự quan tâm đó thành các hỗ trợ thực tế phục vụ cho phát triền; mặt khác tránh được các tình huống khó xử (thế "bị kẹt") giữa các nước lớn, nhất là thế bị "kẹt" trong quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc, giữa Mỹ và Nga, giữa Nga và Trung Quốc, kể cả trong hai tình huống các nước lớn xung đột, mâu thuẫn hoặc hợp tác, thỏa hiệp.
Thứ hai, xử lý thỏa đáng quan hệ giữa Việt Nam với ba nước láng giềng (Trung Quốc, Lào, Campuchia) và vấn đề Biển Đông sẽ tiếp tục là thách thức lớn trong những năm tới.
Ảnh hưởng của các nước lớn tới Lào và Campuchia ngày một gia tăng, tạo nên thách thức đối với an ninh ở sườn phía tây và tây nam của Việt Nam. Do đó việc đề ra chính sách đối ngoại hợp lý để có thể giữ được quan hệ với Lào, Campuchia, bảo đảm an ninh biên giới, nhưng không tiêu hao nguồn lực quá lớn là vấn đề rất hệ trọng.
Vấn đề Biển Đông vẫn là thách thức lớn đối với an ninh và phát triển của Việt Nam, vậy nên cần phải có cách xử lý linh hoạt, thỏa đáng để giữ vững độc lập, chủ quyền của đất nước.
Thứ ba, chủ nghĩa đế quốc và một số thế lực thù địch vẫn ráo riết thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", tiếp tục lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc để chống phá Việt Nam.
Chủ nghĩa đế quốc và một số thế lực phản động vẫn chưa từ bỏ âm mưu "diễn biến hòa bình", chúng vẫn đẩy mạnh hoạt động "nham hiểm" nhằm chuyển hóa chế độ, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, tự do báo chí, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang... Các vấn đề này tồn tại từ nhiều năm qua, hiện nay vẫn diễn biến phức tạp, đặc biệt là dưới sự tác động của các biến động chính trị, quân sự trên thế giới.
Thứ tư, một số thách thức an ninh phi truyền thống trở nên nghiêm trọng hơn.
Các thách thức an ninh phi truyền thống (biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, an ninh tài chính, an ninh lương thực, năng lượng, nguồn nước, ô nhiễm môi trường, an ninh mạng,...) có thể sẽ phức tạp, nghiêm trọng hơn trong khi năng lực ứng phó của ta còn nhiều bất cập. Trong những năm tới, các thách thức như: dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, không khí, nguồn nước,.. tiếp tục diễn ra nghiêm trọng, nhất là vấn đề biến đổi khí hậu và nguồn nước sông Mê Kông. Vấn đề sử dụng sông Hồng và các con sông khác cũng có thể trở thành thách thức đối với an ninh và phát triển của đất nước.
Thứ năm, quá trình toàn cầu hóa, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, nền kinh tế tri thức, kinh tế xanh với những yêu cầu và điều kiện mới cũng tạo ra những thách thức mới đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Quá trình toàn cầu hóa, cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, nền kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn phát triển tạo ra những mặt thuận nhưng cũng đưa tới thách thức mới đối với nền độc lập, chủ quyền quốc gia, làm xói mòn quyền lực nhà nước, dân tộc. Toàn cầu hóa còn làm cho nhiều mặt hoạt động và đời sống con người trở nên kém an toàn, từ an toàn kinh tế, tài chính đến an toàn văn hóa, xã hội, môi trường, an toàn chính trị. Một trong những thách thức của toàn cầu hóa, khu vực hóa là sự hình thành và phát triển của tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (hay còn gọi là tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm quốc tế, mafia), tội phạm khủng bố quốc tế và tội phạm sử dụng công nghệ cao.
II. Những cơ hội và thách thức từ tình hình trong nước
2.1.1. Tiềm năng và vị thế của đất nước
Việt Nam có vị trí địa – kinh tế, địa – chiến lược đặc biệt, nằm trên tuyến đường huyết mạch nối liên Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, châu Á với châu Âu và Trung Đông, đồng thời cũng nằm trên hệ thống kết nối đường bộ của các quốc gia Đông Nam Á và châu Á. Hiện nay hơn 90% lượng vận tải hàng hóa của thế giới qua đường biển thì 45% trong số đó phải đi qua Biển Đông. Việt Nam ở cạnh Trung Quốc, gần với Nhật Bản, Hàn Quốc là những quốc gia có tiềm lực kinh tế, thị trường lớn, tiềm lực tài chính, khoa học – công nghệ mạnh tạo cơ hội lớn cho sự giao lưu, hợp tác phát triển bởi cả các quốc gia trên đều có quan hệ là đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam. Việt Nam nằm trong Đông Nam Á – một khu vực có nhiều tiềm năng và đang là nơi có điều kiện phát triển nhanh, năng động nhất thế giới. Với vị trí chiến lược như trên, Việt Nam có nhiều lợi thế để thu hút sự quan tâm của các nước lớn.
Hiện tại Việt Nam đang có lợi thế cơ cấu dân số “vàng” và sự gia tăng của tầng lớp trung lưu. Hiện tại tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao, tỷ lệ người phụ thuộc thấp. Với khoảng hơn 54 triệu người trong độ tuổi lao động, mỗi năm lại được bổ sung 1,5 triệu người là một sức mạnh tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội.
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có tiềm năng chuyển đổi xanh và sẽ là một trung tâm về năng lượng tái tạo ở Đông Nam Á. Việt Nam đang xếp thứ 8 trong 10 quốc gia có đầu tư vào năng lượng tái tạo cao của thế giới. Trình độ phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam hiện đang đứng thứ 4 trên thế giới.
Hiện tại Việt Nam có quan hệ ngoại giao song phương rộng mở với 194 quốc gia trên thế giới, trong đó có 32 quốc gia có quan hệ đối tác chiến lược, có 9 quốc gia hùng mạnh là đối tác chiến lược toàn diện. Việt Nam đã có quan hệ với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký kết 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) trong đó có nhiều FTA thế hệ mới với các trung tâm kinh tế lớn nhất của thế giới; Việt Nam đang trong 40 nền kinh tế hàng đầu thế giới. Vị thế quốc tế của Việt Nam trên thế giới ngày càng được củng cố và tăng cường, không chỉ tạo cơ hội để tham khảo kinh nghiệm ở các nước tiên tiến và tăng cường hợp tác phát triển, mà còn tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta có thể nhận biết, ngăn ngừa và phòng chống hiệu quả từ sớm, từ xa những yếu tố có nguy cơ đe dọa từ bên ngoài.
2.1.2 Sức mạnh thể chế chính trị
Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý và kiến tạo của Nhà nước là nhân tố cội nguồn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vững bước vào kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc, Đảng ta là Đảng của trí tuệ, và niềm tin yêu của toàn dân tộc, Đảng đã có nhiều kinh nghiệm để tạo nên những kỳ tích hào hùng. Nhà nước ta của dân, do dân, vì dân, có đủ năng lực và tinh thần đổi mới, sáng tạo trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng và sự điều hành, quản lý của Nhà nước, Việt Nam nhất định có đường lối, chính sách đúng đắn, sáng tạo với các bước đi thích hợp để tiến vào kỷ nguyên mới với việc phát triển mạnh mẽ vững chắc kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường; tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bảo đảm đất nước ngày càng giàu mạnh; độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững và củng cố; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo, quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế đất nước được nâng tầm.
Cùng với việc đảm bảo sự trong sạch, vững mạnh, đoàn kết nhất trí của bộ máy tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ cơ quan, Đảng ta quyết tâm chủ trương làm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả tất cả các bộ máy trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đồng thời, đã tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ lý luận chính trị và ý thức bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, an ninh trật tự xã hội và độc lập tự chủ trong hợp tác quốc tế; đã kết hợp chặt chẽ hài hòa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quản lý khoa học và hiệu quả của Nhà nước, toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước đang ngày càng được củng cố, tăng cường theo hướng tinh gọn, hiệu quả, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại không ngừng lớn mạnh, trưởng thành về mọi mặt và hoàn thành xuất sắc các trọng trách được giao phó. Đây chính là yếu tố thuận lợi để xây dựng thành công đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, văn minh, sánh vai vói các cường quốc năm châu.
2.1.3 Thực lực của nền kinh tế xã hội
Sức mạnh tổng hợp của quốc gia và vị thế quốc gia là yếu tố quyết định việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Thực lực là nhân tố quyết định sự thành bại của việc xây dựng, phát triển các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Thực tế thế giới cho thấy nước nào có tiềm lực, thực lực và vị thế quốc gia mạnh, thì đều có nền kinh tế phát triển, văn hóa xã hội hài hòa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại vững chắc, giữ vai trò dẫn dắt và định hướng cục diện thế giới. Trong lần phỏng vấn báo nước ngoài ngày 26/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to thì tiếng mới lớn".
Thực lực của nước ta là sức mạnh tổng hợp mọi mặt của cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Thực lực bao gồm cả thực lực vật chất và thực lực phi vật chất, cả "sức mạnh cứng" và "sức mạnh mềm", kết hợp thành sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt trong lúc lực lượng vật chất, năng lực kinh tế của đất nước còn có mặt hạn chế, thì sức mạnh chính trị, tinh thần và vị thế cũng là một nguồn lực quan trọng. Trong những năm qua, kế thừa và phát huy những truyền thống đối ngoại vẻ vang của dân tộc, Đảng ta đã không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở vì hoà bình, hợp tác và phát triển, thực thi chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Vì vậy vị thế quốc tế của Việt Nam càng được nâng cao, tạo điều kiện cho việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Bốn mươi năm đổi mới đem lại những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đời sống nhân dân cả về vật chất, tinh thần được cải thiện. Năm 1985 thu nhập bình quân đầu người mới đạt 159 USD/năm; thì đến năm 2024 đã ước đạt 4.500 USD/người/năm. Kinh tế Việt Nam phát triển ấn tượng. Chúng ta đã xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông sân bay, bến cảng, đường cao tốc, hệ thống điện nước, hệ thống thông tin đồng bộ, hiện đại, kết nối quốc tế. Nền kinh tế đang được cơ cấu theo hướng hiện đại, hội nhập cao; đổi mới mô hình tăng trưởng trên nền tảng khoa học công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao.
Với quan điểm xác định con người là chủ thể, có vị trí trọng tâm trong chiến lược phát triển, Đảng, Nhà nước ta đã tăng cường các giải pháp phát triển văn hóa, xây dựng con người mới; phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là nhiệm vụ quan trọng để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ, thực hiện bình đẳng giới để tất cả những nhiệm vụ đó được triển khai đồng bộ, mạnh mẽ, tạo thế vũng chắc cho phát triển xã hội hài hòa, văn minh, tất cả các yếu tố trên đã tạo ra cho đất nước ta thế mới và lực mới. Thế và lực mới là tổng hòa những thành ựu to lớn rất quan trọng về phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, quốc hòng, an ninh vững mạnh, mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế. Thành quả của sự nghiệp cách mạng, những kinh nghiệm và bài học thành công hoặc hững hạn chế yếu kém chính là những tiền đề vật chất, tinh thần quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp cách mạng nước ta bước vào kỷ nguyên mới vươn mình.
2.2 Những thách thức, nguy cơ tiềm ẩn từ bên trong đối với an ninh và phát triển của Việt Nam
(1) Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế những năm gần đây chưa thật ổn định và có xu hướng chậm dần. Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư, nhất là vốn đầu tư của Nhà nước thấp. Nhiều chỉ tiêu do các Đại hội của Đảng đề ra không đạt về năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhiều sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ, sức cạnh tranh thấp cả ở trong nước và nước ngoài.
Quan hệ sản xuất trên một số mặt chưa phù hợp. Kinh tế nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế tập thể chưa mạnh. Những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường chưa được chú ý đúng mức; chính sách phân phối còn nhiều bất hợp lý.
Kinh tế phát triển năng động nhưng chưa bền vững và chất lượng tăng trưởng chưa cao, Kết cấu hạ tầng kém, nguồn nhân lực chưa thích ứng, năng lực điều hành kinh tố vĩ mô và quản trị quốc gia yếu kém đã gây cản trở cho sự phát triển của đất nước. Xuất hiện tình trạng không tiếp thu nổi khối lượng to lớn các nguồn lực trong nước nước ngoài huy động được. Chính thực tế này đã gây ra cho đất nước những nguy cơ tiềm tàng mới, đặc biệt là hệ thống tài chính tiền tệ yếu kém, thị trường vốn phát triển nhanh nhưng dễ đổ vỡ, thị trường bất động sản đang có những "cơn sốt" cao hoặc" đóng băng" đan xen nhau, lạm phát cao...
(2) Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trì, dạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên còn nghiêm trọng, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ
Một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân, trong đó có không ít cán bộ, đảng viên suy giảm niềm tin vào con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nền tảng đạo lý của xã hội Việt Nam có sự xuống cấp. Các biểu hiện suy thoái đạo lý như: thiếu công khai, thiếu minh bạch, dân chủ hình thức, sai không dám đấu tranh, đúng không dám bảo vệ, gian lận, dối trá, đạo đức giả, ăn chơi sa đọa, coi thường pháp luật, kỷ cương, phép nước … vẫn là vấn đề chưa được loại bỏ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Một số mặt tiêu cực về tư tưởng đang có biểu hiện phức tạp, tiềm ẩn các nguy cơ gây mất ổn định chính trị. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế chưa được khắc phục có hiệu quả, làm giảm sức chiến đấu của Đảng và lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến. Nạn tham nhũng phổ biến và kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị ở các cấp và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ, chưa dễ khắc phục.
(3) Một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ
Chất lượng giáo dục đào tạo vẫn còn thấp so với yêu cầu. Xu hướng thương mại hóa và sa sút về đạo đức trong giáo dục khá phổ biến ở các cấp học. Các hoạt động khoa học công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khoa học công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đầy, chưa gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Công tác quản lý văn hóa, văn nghệ, xuất bản, báo chí nhiều mặt còn buông lỏng, làm phát sinh những khuynh hướng không lành mạnh. Một số giá trị văn hóa và đạo đức xã hội suy giảm, mê tín, hủ tục phát triển. Môi trường văn hóa bị ô nhiễm, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đổi đạo đức, nhất là trong thanh thiếu niên, làm phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa, ý thức chính trị trong thế hệ trẻ.
Bối cảnh đặc biệt của thế giới và trong nước vừa tạo công cuộc đổi mới, sáng tạo, phát triển trong kỷ nguyên mới của Việt Nam những triển vọng mới đầy hứa hẹn, vừa đặt ra những nhiệm vụ mới hết sức nặng nề. Thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau cùng tác động đến sự phát triển của đất nước. Với bản lĩnh chính trị dày dặn kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong chiến đấu dày dạn kinh nghiệm của giai cấp công nhân, đồng thời là của cả dân tộc, được thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin; tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gắn bó với nhân dân – là lực lượng duy nhất có đầy đủ khả năng lãnh đạo đất nước ta, dân tộc ta tự tin bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, tiến bước cùng thời đại.