Nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm quản lý các sản phẩm sau khi chúng trở thành rác thải
(DNTO) - Nguyên tắc cơ bản của cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), đã được Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đưa ra, theo đó trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu đối với một sản phẩm được mở rộng đến giai đoạn trở thành rác thải.
Tại Hội thảo trực tuyến “Góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết Luật Bảo vệ môi trường về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu”, diễn ra ngày 16/6, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho hay, Bộ Tài nguyên & Môi trường đang xây dựng Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trong đó có nội dung về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu về tái chế và xử lý sản phẩm bao bì là chất thải. Quy định này sẽ có nhiều ảnh hưởng đến các tổ chức sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm, bao bì thuộc danh mục các sản phẩm, bao bì phải được tái chế, gồm: sản phẩm điện, điện tử, pin, ắc quy, dầu, nhớt, săm, lốp, phương tiện giao thông, máy móc công trình và bao bì các loại…
Ông Phan Tuấn Hùng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ TN&MT cho biết, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) là một cách tiếp cận chính sách môi trường, trong đó trách nhiệm của nhà sản xuất đối với một sản phẩm được mở rộng đến giai đoạn trở thành rác thải. ERP yêu cầu các nhà sản xuất chịu trách nhiệm quản lý các sản phẩm sau khi chúng trở thành rác thải.
Đối tượng của cơ chế EPR gồm những ngành hàng như: pin và ắc quy, điện và điện tử; săm lốp, dầu nhờn, ô tô và xe máy, bao bì. Và, các nhà sản xuất có thể tự mình tổ chức thực hiện tái chế hoặc đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để hỗ trợ tái chế chất thải.
Dự thảo đưa ra các quy định cụ thể về đối tượng và lộ trình thực hiện trách nhiệm tái chế; tỷ lệ và quy cách tái chế; đóng góp tài chính vào Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam; đăng ký kế hoạch và báo cáo kết quả tái chế và kê khai, đóng góp tài chính cho Quỹ bảo vệ môi trường để hỗ trợ tái chế; xử lý trường hợp không thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ trách nhiệm tái chế…
Liên quan đến vấn đề này, bà Nguyễn Hoàng Phượng, chuyên gia tư vấn chính sách và pháp luật cho rằng, hiện nay Việt Nam đang gặp một số thách thức khi xây dựng cơ chế EPR, điển hình như: Cơ sở hạ tầng cho quản lý chất thải rắn không theo kịp với tốc độ phát sinh chất thải; tỷ lệ doanh nghiệp siêu nhỏ và cơ sở sản xuất, kinh doanh quy mô nhỏ (hộ gia đı̀nh) rất lớn; lượng phế liệu nhập khẩu lớn; lượng sản phẩm đã qua sử dụng nhập khẩu lớn; thương mại điện tử phát triển nhanh, bao gồm thương mại xuyên biên giới, dịch vụ vận chuyển đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng mà chi phí vận chuyển rẻ hơn trong nước …
“Vì vậy, khi xây dựng cơ chế EPR chúng ta cần cân nhắc và xác định rõ hơn nhà sản xuất, nhập khẩu có nghĩa vụ gì để đảm bảo người có quyền quyết định cao nhất mới có tác động cả đến thượng nguồn và hạ nguồn của chuỗi sản xuất. Hơn nữa, cần phân loại bao bì, đặc biệt là đối với bao bì dịch vụ - loại bao bì không chứa hàng hóa và chỉ được dùng để chuyển giao hàng hoá cho người tiêu dùng cuối cùng (thường là túi nylon hoặc thùng carton để đóng hàng hoá)….”, bà Phượng nói.
Tại Hội thảo, ông Lê Hoàng Khánh Nhựt, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cao su Việt Nam cho biết, hiện nay nếu thực hiện việc tự tái chế sản phẩm sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước so với các doanh nghiệp nhập khẩu không có trách nhiệm tự tái chế.
Việc tự tái chế giúp các doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm nhờ tăng được sản lượng gia công lốp ô tô đắp, phát triển thêm nhiều sản phẩm từ việc tận dụng các nguyên liệu sau tái chế; hạn chế sản phẩm nhập khẩu do nhà nhập khẩu không thể thực hiện việc tự tái chế sản phẩm hoặc làm tăng thêm giá thành săm lốp nhập khẩu do phải nộp kinh phí vào Quỹ bảo vệ môi trường để hỗ trợ tái chế sản phẩm…