Mức thuế phi lý 412% từ phía Mỹ đang giáng đòn chí mạng cho ngành ong Việt Nam
(DNTO) - 90% lượng mật ong Việt Nam xuất khẩu đi sang thị trường Mỹ. Nếu nước này áp thuế chống bán phá giá lên tới 412,49%, ngành sản xuất mật ong Việt Nam sẽ vô cùng khó khăn.
Không thể thu 1 đồng, đóng thuế 4 đồng
Mới đây, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) công bố mức thuế chống bán phá giá sơ bộ đối với mặt hàng mật ong Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ là 412,49%. Cùng với Việt Nam, 4 nước khác gồm: Brazil, Ấn Độ, Ukraine, Argentina cũng nằm trong danh sách các nước bị áp thuế xuất khẩu mật ong lần này nhưng mức thuế thấp hơn rất nhiều lần.
“Khi nhận được tin đó, tất cả người nuôi ong Việt Nam choáng váng”, ông Đinh Quyết Tâm, Chủ tịch Hội Nuôi ong Việt Nam chia sẻ về việc Mỹ áp mức thuế cao ngất ngưởng với ngành ong Việt Nam, tại Diễn đàn Thương mại Việt Nam - Mỹ sáng ngày 7/12.
Năm 1992, Việt Nam lần đầu xuất khẩu mật ong sang Hoa Kỳ với số lượng 40 tấn, đến nay, số lượng lên tới 50.000 tấn mỗi năm, chiếm khoảng 90% tổng sản lượng mật ong xuất khẩu Việt Nam đi thế giới (54.000 tấn/năm). Theo ông Tâm, việc áp dụng thuế này ảnh hưởng trực tiếp tới người lao động Việt Nam, không chỉ về sinh kế mà còn cả hệ sinh thái nông nghiệp (vì ong thụ phấn cho cây trồng).
“Từ một thị trường chiếm 90% mà giờ áp một mức thuế quá cao, không ai có thể kinh doanh được với một sản phẩm thu về 1 đồng nhưng đóng thuế đến hơn 4 đồng. Như vậy chỉ có khả năng đóng cửa hoàn toàn. Ngay tại thời điểm này, các đàn ong đang nhân lên để chuẩn bị đón vụ mật ong cho mùa Xuân năm tới thì người nuôi ong không biết làm thế nào. Với gần 10.000 người nuôi ong chuyên nghiệp và khoảng 25.000 hộ nuôi ong gia đình, họ đang không biết làm thế nào. Có những gia đình 3 thế hệ nuôi ong và đây là sinh kế chính của họ”, ông Tâm cho biết.
Những quyết định phi lý
Chủ tịch Hội Nuôi ong Việt Nam cho biết, việc điều tra chống bán phá giá trong thương mại là hoạt động rất bình thường khi các nước hội nhập. Nguyên lý chung của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là khi điều tra một nước nào đó phải lấy một nước có điều kiện kinh tế xã hội và sản xuất tương tự để so sánh.
Trong vụ việc điều tra chống bán phá giá mật ong Việt Nam, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã chọn Ấn Độ là nước để tính giá trị thay thế bởi đây là nước có điều kiện kinh tế xã hội, sản xuất tương đồng với Việt Nam. Tuy nhiên, khi ra phán quyết sơ bộ, Ấn Độ chỉ bị áp mức thuế rất tượng trưng 6,4%, trong khi Việt Nam là 412%.
Theo ông Tâm, DOC đã phi lý khi chọn giá mật ong của Ấn Độ nhập khẩu từ các nước phát triển như New Zealand, Canada, Arab Saudi… để tính làm giá trị thay thế. Thứ hai, giá sản xuất bao bì Ấn Độ chỉ gần 70 rupi, nhưng sau quá trình điều tra, DOC đưa ra giá gấp 7 lần. Trong khi ở Việt Nam giá rẻ hơn nhiều.
Kể cả việc so sánh giá trị ong Việt Nam với giá trị ong Hoa Kỳ cũng chưa hợp lý. Vì Việt Nam nuôi ong hoàn toàn lấy mật để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Trong khi đó người nuôi ong Mỹ, họ chỉ thu lợi tức 30% từ mật ong, còn 70% thu từ dịch vụ thụ phấn cây trồng.
“Một đất nước GDP nhỏ như Việt Nam tại sao lại lấy giá của các nước sản xuất mật ong phát triển, từ miền ôn đới với điều kiện kinh tế xã hội khác hẳn để lấy làm giá trị so sánh. Đó là điều không tưởng. Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ biến động mỗi năm từ 40-50.000 tấn mật ong, nhưng lấy số lượng thay thế mà Ấn Độ nhập khẩu của một doanh nghiệp 200 tấn/năm để tính cho 50.000 tấn là không hợp lý. Chúng tôi mong muốn Chính phủ hai bên xem xét cho hợp lý trước khi đưa ra phán quyết cuối cùng. Vì doanh nghiệp Việt Nam không đủ nguồn lực để theo đuổi các vụ kiện nếu kiện lên WTO”, ông Tâm bày tỏ.
Bà Phạm Châu Giang, Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ Thương mại, Bộ Công thương cho biết, đây là lần đầu tiên ngành nông sản Việt Nam bị áp một mức thuế cao ngất ngưởng trong vụ việc điều tra phòng vệ thương mại và đây cũng là vụ việc đạt tỉ lệ đồng thuận cao nhất từ các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong việc hợp tác, cung cấp đầy đủ thông tin cho phía Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ sử dụng dữ liệu không khách quan và không công bằng với các doanh nghiệp Việt Nam, dẫn đến doanh nghiệp Việt Nam chịu mức thuế cao một cách vô lý.
Đối với vụ việc này, ngay sau khi Hoa Kỳ ban hành kết luận sơ bộ, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Ngoại giao có cuộc họp với các doanh nghiệp xuất khẩu ong để bàn thảo các phương án.
“Cho đến thời điểm này, Bộ Công thương cũng như các doanh nghiệp, hiệp hội ưu tiên trao đổi trực tiếp với các cơ quan liên quan của Hoa Kỳ để đưa ra các lập luận, dữ liệu thực tế của Việt Nam để chứng minh sản phẩm mật ong Việt Nam không bán phá giá và gây thiệt hại cho ngành sản xuất mật ong của Hoa Kỳ”, bà Giang khẳng định.