Chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp: Nhiều ứng dụng chưa được triển khai vì quy mô nhỏ, ít sáng tạo
(DNTO) - Theo TS. Từ Minh Thiện, Nguyên Phó ban quản lý Nông nghiệp công nghệ cao TP.HCM, tại nước ta, phát triển nông nghiệp công nghệ cao đang gặp nhiều hạn chế như: quy mô nhỏ, hoạt động đơn chức năng; mô hình tổ chức quản lý chưa phù hợp; thiếu vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp; ít năng động sáng tạo…
Hiện nay, chuyển đổi số được áp dụng ngày càng nhiều trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp thì cơ hội vươn lên của nông sản Việt càng dễ dàng.
Như Bộ trưởng Lê Minh Hoan đã từng cho hay, đoàn tàu chuyển đổi số còn đang loay hoay ở sân ga. Song, không thể chậm trễ hơn được. Bởi, việc chuyển đổi số sẽ góp phần mạnh mẽ trong việc hạ giá thành, nâng cao giá trị nông sản. Do đó, phải xác định chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp là một hành trình, một cuộc tìm kiếm và áp dụng không bao giờ có điểm dừng.
Thực tế, công cuộc chuyển đổi số đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng vẫn còn đó những hạn chế. Tại Diễn đàn "Kết nối ứng dụng công nghệ số, công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp”, ngày 4/11, TS. Từ Minh Thiện, Nguyên Phó ban quản lý Nông nghiệp công nghệ cao TP.HCM, cho rằng, dư địa ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp của Việt Nam đang rất lớn, song chúng ta mới chỉ triển khai được 3/10 ứng dụng chính về tiếp cận thị trường và chuỗi giá trị; ứng dụng để tăng năng suất cây trồng vật nuôi; cải thiện tính an toàn sản phẩm và truy xuất nguồn gốc nông sản. Các ứng dụng nhằm quản lý chuỗi cung ứng; tiếp cận dịch vụ tài chính; quản lý rủi ro; quản lý đất đai; cải thiện hệ thống sáng kiến hay hỗ trợ các nông hộ quy mô nhỏ… gần như chúng ta chưa triển khai được.
Ông Thiện chỉ rõ, các nước tiên tiến định hướng phát triển nông nghiệp thông minh rất rõ ràng, ví dụ: Nước Đức thúc đẩy tích hợp hệ thống M2M và IoT, triển khai các dự án nông nghiệp 4.0. Nhật Bản thì áp dụng công nghệ Al, tạo các mô hình phối hợp giữa con người, máy móc, sản xuất thông minh hay Israel, dù nghiên cứu khoa học nông nghiệp trong điều kiện bất lợi về tài nguyên thiên nhiên, khí hậu nhưng họ phát triển, ứng dụng rất hiệu quả công nghệ tưới nhỏ giọt vào trồng trọt trên sa mạc…
Còn tại nước ta, theo ông Thiện, phát triển nông nghiệp công nghệ cao đang gặp nhiều hạn chế như: quy mô nhỏ, hoạt động đơn chức năng; mô hình tổ chức quản lý chưa phù hợp; thiếu vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp; ít năng động sáng tạo…
“Tiếp cận công nghệ không khó, quan trọng áp dụng công nghệ đó sao cho có hiệu quả. Chúng ta phải làm sao để sản phẩm công nghệ cao sản xuất ra tiêu thụ được hết, để người tiêu dùng phân biệt được giá giữa nông nghiệp công nghệ cao và sản xuất thông thường, từ đó gia tăng hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích”, TS. Từ Minh Thiện nhấn mạnh.
Nêu những khó khăn, vướng mắc cụ thể, ông Nguyễn Văn Ba, Giám đốc HTX Nông nghiệp hữu cơ An Phú Thuận (Đồng Tháp) chia sẻ, nhiều thông tin giá trị từ vấn đề kiểm soát mã số vùng trồng, dữ liệu về đất đai, vấn đề giảm chi phí sản xuất để nâng cao lợi nhuận đến ứng dụng máy móc, công nghệ vào sản xuất...
Song, vấn đề lớn nhất là nông dân phải bỏ tiền ra cho những công nghệ nên sẽ rất khó khăn do điều kiện kinh tế hạn hẹp. Hơn nữa, các công nghệ này đều mới nên nông dân cũng khó tiếp cận. Đặc biệt, trong trang bị máy móc, thiết bị… phải mua hàng loạt nên người dân rất cần sự hỗ trợ.
Về sản phẩm OCOP, ông Ba cho rằng, chúng ta phải làm sao để bảo vệ sức khỏe, bảo vệ người tiêu dùng và môi trường. "Hãy để cho nông dân tiếp xúc nhiều hơn sự đầu tư, kinh phí ban đầu để khởi nghiệp. Chúng tôi là những người nhỏ lẻ vào thị trường nên cần sự hỗ trợ, tiếp sức để tham gia chuỗi giá trị", ông Ba nói.
Nêu quan điểm, bà Đào Thị Như Hè, Giám đốc Công ty Sài Gòn Kim Hồng cho biết: Công ty chúng tôi chuyên nhập các loại máy nông nghiệp từ Hàn Quốc và đang phân phối máy bay không người lái phun thuốc bảo vệ thực vật. Đây là loại máy đơn giản, chất lượng tốt nên rất mong muốn các cơ quan chức năng tạo cơ hội để tổ chức các cuộc hội thảo, phổ biến loại máy này đến với bà con nông dân.
"Hiện nay, sau 3 năm thí điểm thì Kim Hồng gặp vấn đề khó khăn như giá máy cao (450-530 triệu đồng) do vậy để áp dụng cho bà con nông dân thì khó khăn. Nhà nước hiện có chính sách hỗ trợ 50% vụ đầu nhưng vụ sau không hỗ trợ nên bà con nông dân không có điều kiện tiếp cận.
Do vậy, Kim Hồng kiến nghị các cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp hỗ trợ để bà con có điều kiện tiếp cận loại máy này. Kim Hồng cũng mong muốn các sở, ban, ngành… lắng nghe để đưa ra các phương pháp hỗ trợ bà con", bà Hè trăn trở.
Cũng tại Diễn đàn, bà Nguyễn Thị Thành Thực, Chủ tịch Công ty cổ phần Đầu tư Bagico đưa ra một số ý kiến và đề xuất để tháo gỡ "điểm nghẽn" về ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp. Theo bà, công tác chuyển đổi số tại địa phương với nhiều tổ chuyển đổi số cấp xã được hình thành cho thấy tín hiệu tích cực trong công tác này, song cách khai thác chương trình ứng dụng chuyển đổi số vẫn còn một số hạn chế.
Theo bà Thực, từ phía cơ quan quản lý Nhà nước cấp địa phương, có nơi vẫn chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin của người bán trên nền tảng số để minh bạch hóa trao đổi thương mại. Đồng thời, từ quản lý Nhà nước, vẫn chưa có ngay biện pháp, công cụ để đưa ngay lập tức ứng dụng chuyển đổi số đối với mã vùng trồng, mã xưởng xuất khẩu đối với các mặt hàng xuất khẩu đi Trung Quốc mà gần đây nhất là sầu riêng xuất khẩu chính ngạch sang thị trường 1,4 tỷ dân.
Do đó bà Thực đề xuất tăng cường đào tạo cán bộ cấp thôn, xã đặc biệt đối với các cộng tác viên nông nghiệp, nhân viên khuyến nông vì đây là cánh tay nối dài để đưa ứng dụng chuyển đổi số vào thực tiễn.
Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực cơ quan quan lý nhà nước, tạo cơ chế chính sách để cán bộ cơ quan quản lý nhà nước ứng dụng mà không sợ vi phạm. Những mặt hàng xuất chính ngạch và các mặt hàng tham gia đàm phán xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc cần nhanh có hướng dẫn về ứng dụng chuyển đổi số từ cơ quan quản lý Nhà nước.
"Đối với thương hiệu quốc gia, việc bị đưa bằng chứng vi phạm, từ đó bị ngưng cấp chính ngạch cho một ngành hàng sẽ gây thiệt hại lớn đối với người nông dân. Như vậy, cần đưa vào quy định đối với thủ tục hành chính một cửa tại địa phương. Và liên thông kiểm soát giữa bộ, ban, ngành làm sao để doanh nghiệp tự giác chấp hành“, bà Thực đề xuất.